Trong cái thời tao đoạn ấy, việc
Tràng lấy vợ quả là một tình
huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay
lo, buồn hay vui cho cặp vợ
chồng này? Tâm trạng của
những nhân vật trong câu
chuyện chứa đầy những cảm
xúc ngổn ngang và mâu thuẫn.
Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con
mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì
sự trớ trên của số phận : có phải
thời “tao đoạn” như thế, người
ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ
nghèo nặng trĩu những lo âu
cho tương lai của con mình, “liệu
chúng nó có nuôi nhau nổi sống
qua được cơn đói khát này
không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng
của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang
mang, ám ảnh của kiếp bần hàn
không lối thoát và cả sự rình rập
trước ngõ của cơn ác mộng về
cái đói chưa bao giờ dữ dội đến
thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy
cả nỗi buồn của một người mẹ
không được thấy con trong
ngày vui, không được một vài
mâm làm lễ gia tiên. Trong lời
nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả
sự xót xa, một chút ân hận vì đã
không làm được đầy đủ bổn
phận của một người mẹ đối với
con.
Tâm trạng của Tràng cũng biến
đổi liên tục từ khi thị quyết định
theo hắn về nhà. Tình huống
nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ
bằng những câu bông lơn và
bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý
làm bạn với hắn. Thị theo hắn
dường như để giải quyết nhu
cầu ăn. Những chuyện tưởng
như rất thô lậu và trơ trẽn
nhưng dưới ngọi bút tài tình
của Kim Lân, nó trở nên nhẹ
nhàng hơn và lấp ló tình
thương. Tràng hoàn toàn mờ
mịt về tương lai của mình “thóc
gạo này đến thân mình còn chả
biết có nuôi nổi không lại còn
đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra
tay cưu mang người đàn bà
nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa
người phụ nữ đến với hắn,
mang đến cho hắn niềm hạnh
phúc của một người có được
mái ấm gia đình với bao ước mơ
về tương lai dung dị nhưng đầy
cảm động. Chính vì thế, hắn
nhận ra trách nhiệm của mình
đối với hạnh phúc mà mình vừa
có được. Lòng hắn chợt loé lên
một ý nghĩa được đổi đời, tự
dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ,
vẩn vơ, khó hiểu.
Không cần dùng đến những lời
lẽ đanh thép hay “đại ngôn”
nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang
đến một giá trị nhân bản vô
cùng to lớn. Bằng tình huống
đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo
chế độ thực dân phát xít,
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
cái đói kinh hoàng. Cái đói mang
đến sự chết chóc, tang thương
khắp mọi nơi và cũng chính nó
làm những giá trị con người bị
hạ xuống mức thấp nhất. Con
người dường như mất hẳn tính
người, chỉ còn sống theo bản
năng để được ăn, được
sống...Cơn đói khát làm cho
ngừoi đàn bà quên cả sĩ diện,
được mời ăn “hai con mắt trũng
hoáy của thị sáng lên” tức thì,
thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị
cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trò
gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai
có lương tâm cũng phải xấu hổ,
phải quay mặt đi để cười ra
nước mắt. Thì làm ta liên tưởng
đến bà lão trong Một bữa no của
Nam Cao. Con người trở nên trơ
trẽn, mất nhân cách khi cái đói
lởn vởn trong tâm trí. Giận thị
nhưng ta vẫn xót xa trước dáng
hình tiều tụy của thị “hôm nay
thị rách quá, quần áo tả tơi như
tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái
khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
còn thấy hai con mắt”. Cái đói,
với bóng đen kinh hoàng của nó
bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng
lên cuộc sống bình thường của
mỗi con người. Còn gì thê thảm
bằng đám “rước dâu” có tiếng
quạ kêu thê thiết đón chào, đêm
tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê
“có mùi đốt đống rấm ở những
nhà có người chết theo gió
thoảng vào khét lẹt”. Thân phận
bọt bèo của những con người
như Tràng, những cám cảnh bần
cùng ấy tự thân nó đã có sức tố
cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực
dân phát xít....
Thế nhưng , chính trong cái cảnh
thê lương ấy, những tấm lòng
nhân hậu lại sáng ngời lên mà
tiêu biểu trong tác phẩm là bà
cụ Tứ. Trong lòng người mẹ
nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn
tình thương con vô bờ bến
“vừa ai oán vừa xót xa cho số
kiếp của đứa con mình”. Trong
cái nhìn đăm đăm vào người
đàn bà đang “cúi mặt xuống,
tay vân vê tà áo đã rách bợt” có
sự xót thương, thông cảm sẻ
chia. Tình thương con dù bao la
đến mấy cũng có thể chỉ làm bà
“rủ xuống hai dòng nước mắt”.
Cái khổ đau vất vả một đời đã
vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó
không đủ để chảy thành dòng
“rủ” xuống như chết non một
cách tức tưởi. Không còn nước
mắt nhưng bà vẫn nhận lấy
nguy cơ bị cái chết gần thêm
bước nữa.
Bằng ngòi bút tài năng của
mình, Kim Lân có lúc đã đưa
người đọc đến tận cùng màn
đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại
nhẹ nhàng hé ra một khe sáng
lấp ló đâu đó khiến chúng ta
hướng về và vươn tới. Người
dân Việt nam mà đại diện là
những bà mẹ Tràng, anh Tràng
và người đàn bà vẫn khát khao
cuộc sống hạnh phúc tươi sáng
hơn. “Bà lão nói toàn chuyện
vui, chuyện sung sướng sau
này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn
một viễn cảnh tươi sáng gia
đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng
nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác
thường , “cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta
vui lây niềm vui của gia đình
hoà thuận, đầm ấm, niềm vui
của Tràng được thấy xung
quanh mình hôm nay có gì vừa
thay đổi mới mẻ, khác thường.
Niềm vui bất chợt của gia đình
làm ta cười sung sướng nhưng
nước mắt vẫn cứ tuôn mãi
nghẹn ngào. Ta múôn tha thứ
tất cả, kể cả sự trơ tráo của
người đàn bà và cả tội phung
phí đến hai hào dầu của anh
Tràng.
Chỉ một tình huống nhỏ nhoi
nhưng Kim Lân đã gợi nên biết
bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình
huống lại mang một giá trị nhân
bản,tấm lòng nhân đạo bao la
của nhà văn. Chính vì thế, tác
phẩm mang đầy tình yêu
thương nồng ấm như một ngọn
lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc
đời. Và tác phẩm đã cho ta phát
hiện thêm một bản chất tuyệt
vời nhân hậu., tuyệt vời đức hi
sinh của những người nông dân
Việt Nam. Dù đứng trước sự
mất còn của mạng sống ( hiểu
theo nghĩa đen trần trụi nhất)
vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm
giá để làm người, để sống với hi
vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao
vàng của Việt Minh dẫn đoàn
người đói khát đi phá kho thóc
của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng.
Cách mạng đã gần kề, suối
nguồn của chủ nghĩa nhân đạo
sẽ làm sáng lên những con
người bình dị nhưng có phẩm
chất nhân đạo như cụ Tứ, như
Tràng và cô “vợ nhặt” tội
nghiệp....Họ sẽ viết tiếp truyện
thống về phẩm giá con người
Việt Nam trong tương lai